Kỹ thuật sản xuất giống Cá Tra và Cá Basa
1. Nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ
1.1. Ao nuôi vỗ cá bố mẹ
Ao nuôi cá nên chọn đào ở những nơi đất thịt và ít bị nhiễm phèn, nên gần nhà để tiện chăm sóc và bảo vệ. Ao nuôi vỗ cá tra có diện tích ít nhất 500 m2, ao nuôi vỗ cá ba sa bố mẹ nên có diện tích lớn hơn, phải từ 1000 m2 trở lên, độ sâu mực nước từ 1,5 - 3 m. Nhiệt độ nước ao thích hợp từ 26 - 30°C, pH thích hợp từ 7 - 8, hàm lượng oxy hòa tan từ 2mg/l trở lên.
Nhìn chung ao càng rộng, thóang càng tạo không gian họat động thỏai mái cho cá. Ao rộng thì giữ được sự ổn định của các yếu tố môi trường nhất là những khi thời tiết thay đổi. Ao rộng và thóang sẽ dễ dàng tạo được sự đối lưu giữa các tầng nước và các khu vực trong ao, điều hòa lượng khí oxy hòa tan trong nước giúp cho cá sinh trưởng và phát triển thuận lợi, thành thục dễ dàng và chất lượng sản phẩm sinh dục tốt. Một số địa phương, nhiều hộ có ao nuôi vỗ cá tra bố mẹ với diện tích nhỏ hơn 500 m2, vì vậy các yếu tố thủy lý hoá trong ao biến đổi nhiều, dẫn đến tỷ lệ thành thục cũng như sức sinh sản của cá bố mẹ đều kém, chất lượng trứng và tinh dịch không tốt, tỷ lệ sống của cá bột thấp. Ðộ sâu của ao cũng phải hợp lý để tạo thêm không gian họat động cho cá. Ao sâu thường giữ được nhiệt độ ổn định hơn ao cạn . Nhưng ao qúa sâu cũng không tốt, vì ao sâu có ảnh hưởng tới chất lượng công trình, đồng thời lớp nước dưới đáy ao ít được trao đổi, chất lắng đọng nhiều, nhiệt độ thấp, lượng oxy hòa tan thấp nên không thuận lợi cho cá
Trước khi thả cá bố mẹ để nuôi vỗ, phải tiến hành các công việc chuẩn bị và cải tạo lại ao: tát hoặc tháo cạn nước ao, bắt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy ( chỉ nên để lớp bùn dày 20 - 25 cm ). Dọn sạch cỏ, chặt bớt các tán cây che khuất quanh bờ ao, đắp lại những chỗ sạt lở và hang hốc cua, rắn, ếch, chuột.Ðể diệt cá tạp và nhất là cá dữ trong ao, ta thường dùng rễ cây thuốc cá (Derris), cứ 1kg rễ cây thuốc cá dùng cho 100 m3 nước, ngâm nước 8 - 10 giờ rồi đập dập hoặc giã nát rồi vắt lấy nước và tạt đều khắp ao vào lúc trời nắng. Chất Rotenon có trong rễ cây thuốc cá sẽ diệt hết mọi cá tạp và cá dữ còn sót lại trong ao. Sau khi diệt tạp, dùng vôi bột rải đều đáy và mái bờ với lượng vôi từ 7 - 10 kg/100m2. Phơi nắng đáy ao 1 - 2 ngày và cho nước vào ao từ từ qua lưới chắn lọc, khi mực nước cao đạt yêu cầu thì tiến hành thả cá bố mẹ.
1.2. Bè nuôi vỗ cá bố mẹ
Cá bố mẹ sinh sản cũng được nuôi trong bè: Bè để nuôi cá bố mẹ cũng giống như bè nuôi cá thịt. Thực tế cho thấy khi nuôi cá bố mẹ trong bè thì tỷ lệ thành thục cũng như chất lượng sản phẩm sinh dục đều rất tốt. Bè đặt trên sông nước lưu thông, nhờ dòng nước chảy thường xuyên, cung cấp đầy đủ oxy và môi trường sạch, không bị ô nhiễm bởi các chất thải của cá, các yếu tố thủy lý hoá khác của nước sông ổn định nên rất thuận lợi cho đời sống và phát dục của cá.
a- Cấu tạo bè nuôi cá
Vật liệu đóng bè chủ yếu là các loại gỗ tốt, chịu nước và lâu mục như gỗ sao, vên vên, căm xe, chò. Hiện nay còn có loại bè bằng chất liệu mới như composite, inox, có nơi đang thử nghiệm dùng chất béton polystirène. Vật liệu phải đảm bảo yêu cầu dễ làm vệ sinh, dễ khử trùng và không gây nhiễm cho cá nuôi.
Bè được đóng theo dạng khối hộp chữ nhật, gồm khung bè, mặt bè, hông bè, đầu bè, đáy bè, phần nổi và neo bè. Phần nổi (phao nâng bè) có thể làm bằng thùng phuy, thùng gỗ, hộp sắt, thùng nhựa, ống PVC. Kích thước bè phổ biến ở các tỉnh ÐBSCL là 6 x 3 x 3m hoặc 8 x 5 x 3m, độ sâu nước từ 2,5-3 m, thể tích trung bình một bè khoảng trên dưới 100m3 . Trên bè có thêm các công trình phục vụ sinh hoạt, sản xuất, nơi chế biến thức ăn, nhà kho, nơi nghỉ ngơi. Bè được cố định bằng neo ở 4 góc, dây neo được buộc vào trụ neo ở đáy hay bằng mỏ neo.
b- Vị trí đặt bè
Bè được đặt nổi và neo cố định tại một vị trí thuận lợi trên sông, gần bờ, dọc theo dòng nước chảy, nơi có dòng chảy thẳng và liên tục, cách bờ ít nhất 10m, lưu tốc 0,2-0,5m/giây, mức nước sông tương đối điều hoà. Mặt bè phải nổi cao hơn mực nước sông 0,3-0,5m, đáy bè cách đáy sông ít nhất 0,5 m vào lúc nước ròng. Nơi đặt bè không ảnh hưởng đến giao thông trên sông, chỉ được đặt ở những khúc sông có chiều rộng mặt sông lúc mực nước thấp nhất từ 70 m trở lên. Nước sông nơi đặt bè không bị ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, mặn và không thay đổi đột ngột. Nguồn nước lưu thông sạch, không ô nhiễm, xa các cống nước thải. Tránh nơi luồng nước ngầm, bồi tụ, xói lở, nơi có nhiều rong cỏ, nơi dòng nước có quá nhiều phù sa. Ngoài ra cũng cần chú ý đến vị trí thuận tiện giao lưu, gần các trục lộ giao thông giúp cho vận chuyển thức ăn, đi lại dễ dành thuận lợi.
Khi chọn vị trí đặt bè cũng phải xem xét và cân nhắc hợp lý các điều kiện trên để quyết định chính xác vì việc di chuyển bè rất khó khăn, tốn kém cũng như sẽ ảnh hưởng đến kết quả nuôi vỗ.
Trước khi thả cá nuôi vỗ phải dọn vệ sinh bè, phun tẩy trùng bè bằng formol với nồng độ 30 ppm (ppm=mg/lít). Phải xem xét, kiểm tra và tu sửa bổ sung hoàn chỉnh tất cả các chi tiết của bè, thay các phần ván hư mục, lưới chắn .
1.3. Lựa chọn cá bố mẹ nuôi vỗ
Có thể chọn cá để nưôi làm cá hậu bị từ những đàn cá thịt nuôi trong ao hoặc trong bè. Ðàn hậu bị được nuôi đến năm thứ hai thì lựa những cá thể tốt nhất để làm đàn cá bố mẹ chính thức. Chọn những con khỏe mạnh, ngoại hình cân đối, hoàn chỉnh không bị dị hình, di tật, trọng lượng của cá tra và ba sa từ 3 - 4 kg, có độ tuổi từ 3 năm trở lên và nên lựa chọn đều nhau về quy cỡ. Những cá khỏe và thể trọng lớn sẽ thành thục tốt, hệ số thành thục và sức sinh sản cao (có nhiều trứng). Không nên chọn cá quá nhỏ để đưa vào nuôi vỗ, vì cá nhỏ sẽ có chất lượng sản phẩm sinh dục sẽ kém. Nên chọn những cá có nguồn gốc xa nhau, của nhiều đàn cá thịt ở các ao khác nhau nhằm tránh sự cận huyết, vì xảy ra cận huyết sẽ làm giảm sức sống của các thế hệ con cháu về sau, chúng sẽ chậm lớn, nhiều cá thể bị dị hình, sức đề kháng với bệnh tật kém.
Mật độ nuôi vỗ cá bố mẹ như saụ: với cá tra nuôi vỗ trong ao nên thả 1 kg cá bố mẹ trong 5 m3 nước, cá ba sa thì 1 kg bố mẹ trong 10m3 nước. Nếu nuôi vỗ trong bè thì thả cá tra 5 -7 kg/m3, cá ba sa 3-4 kg/ m3. Có thể nuôi chung cá đực, cái trong một ao hoặc bè, tỷ lệ nuôi đực/cái là 1/1.
1.4. Mùa vụ, thời gian nuôi vỗ và sinh sản
Mỗi năm sau khi kết thúc mùa sinh sản nhân tạo, đàn cá bố mẹ được đưa vào nuôi hồi sức, sau đó phải được kiểm kê, đánh giá và chọn lọc để chuẩn bị nuôi vỗ cho mùa sinh sản tiếp theo. Tùy theo nhiệm vụ, yêu cầu thị trường, cũng như năng lực và cơ sở vật chất của từng cơ sở, từng trại giống để tính toán số lượng cá bố mẹ nuôi vỗ cho phù hợp.
Ðối với cá tra, ở các tỉnh Nam bộ mùa vụ nuôi vỗ bắt đầu từ tháng 10 - 11 năm trước, các tỉnh miền Trung ( từ Ðà nẵng trở vào ) thời gian bắt đầu nuôi có thể chậm hơn khoảng một tháng. Các tỉnh miền Bắc do ảnh hưởng thời tiết lạnh mùa đông nên nuôi vỗ phải muộn hơn, đàn cá phải được nuôi lưu giữ qua đông và nuôi vỗ tích cực từ tháng 3 trở đi. Ở khu vực Nam bộ thời gian cá thành thục và bước vào sinh sản từ tháng 3, mùa cá đẻ có thể kéo dài tới tháng 9. Khu vực các tỉnh miền Trung thời gian cá thành thục và cho đẻ muộn hơn, từ tháng 4 và kéo dài đến tháng 9 hàng năm.
1.5. Thức ăn cho cá bố mẹ
- Nhu cầu thức ăn của cá bố mẹ .
Ðể cá phát triển và có sản phẩm sinh dục tốt, cần phải cung cấp thức ăn cho cá đủ về số lượng và chất lượng, cân đối về thành phần dinh dưỡng. Nhu cầu về hàm lượng dinh dưỡng cho cá tra và ba sa bố mẹ tương đối cao, phải có đủ và cân đối hàm lượng các loại như đạm, đường, mỡ, vitamin, chất khoáng. Ðặc biệt hàm lượng đạm (Protein) phải đảm bảo từ 30% (cá tra) và 40% (cá ba sa) trở lên thì cá mới thành thục tốt. Hàm lượng Lipit tối thiểu 10% trở lên. Có hai loại thức ăn chủ yếu thường dùng hiện nay là thức ăn hỗn hợp tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
a- Thức ăn hỗn hợp tự chế biến
Nguyên liệu để chế biến thức ăn cho cá bao gồm phụ phẩm nông nghiệp (cám, tấm, bột, lúa lép nghiền mịn, bột đậu tương, bột ngô, bột sắn), cá tạp, cá vụn, đầu tôm cá, khô cá biển, bột cá lạt, con ruốc (moi), bột xương, rau xanh (rau muống, rau khoai lang, rau cải) quả (bí ngô), cùi dừa v.v. Ngoài ra nên bổ sung thêm các loại vitamin (A,C,D,E), đặc biệt là vitamin C, premix khoáng các thành phần chứa nguyên tố vi lượng vào thức ăn cho cá, giúp cá tăng sức đề kháng phòng chống lại được bệnh tật và nhanh phát dục.
Nguyên liệu phải đảm bảo sạch, không bị mốc hoặc biến chất hay quá hạn sử dụng, cá tạp, cá vụn hoặc đầu tôm cá, phụ phẩm lò mổ không bị ươn thối. Tuyệt đối không sử dụng các hoá chất hoặc chất kháng sinh bị cấm sử dụng để trộn vào thức ăn chế biến cho cá. Theo quyết định số 01-2001/BTS ngày 20/01/2001 của Bộ Thuỷ Sản.
Theo công thức thức ăn, các loại nguyên liệu được nghiền nát , phối trộn đều và nấu chín. Lò nấu thức ăn đặt trên sàn bè để thuận tiện cung cấp thức ăn cho cá. Thức ăn sau khi nấu chín, để nguội có thể ép viên hoặc vo thành nắm nhỏ rồi rải cho cá ăn. Cũng có thể dùng máy ép đùn đưa thức ăn trực tiếp xuống bè nuôi.
b- Thức ăn viên công nghiệp
Thức ăn cho cá tra bố mẹ phải có hàm lượng đạm 30% và thức ăn cho cá ba sa có hàm lượng đạm 40% trở lên. Có thức ăn viên dạng chìm và dạng nổi với các cỡ thức ăn khác nhau cho cá ở từng giai đoạn phát triển, dạng thức ăn viên nổi thì cá dễ dàng sử dụng hơn. Thức ăn viên sử dụng cho cá phải đảm bảo hoàn toàn không chứa các hoá chất hoặc thuốc kháng sinh bị cấm sử dụng và dư lượng các chất được phép sử dụng phải trong mức giới hạn cho phép.
c- Cho cá ăn
Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, buổi sáng ( 7-8 giờ ) và buổi chiều (16-17 giờ). Khẩu phần cho cá ăn hàng ngày với thức ăn hỗn hợp tự chế biến từ 5 - 8% thể trọng cá, thức ăn viên công nghiệp 2-3% thể trọng ( tức là cứ 100 kg cá thì cho ăn 5 - 8 kg thức ăn tự chế biến hoặc 2-3 kg thức ăn viên công nghiệp ). Trong ao nên cho thức ăn vào sàng (hoặc nia) và treo cách đáy ao 25- 30cm. Nên cho cá ăn ở nhiều điểm (nhiều sàng ăn) để cá được ăn đều. Không đổ thức ăn một lượt xuống ao hoặc bè mà rải từ từ xuống ao hoặc bè cho tất cả cá đều được ăn. Không cho cá ăn những thức ăn bị ôi thiu, những thức ăn bị mốc hoặc qúa hạn sử dụng.
1.6. Quản lý ao và bè nuôi vỗ cá bố mẹ
Ao nuôi vỗ cá bố mẹ phải thay nước thường xuyên để giữ cho môi trường ao nuôi sạch và cá khoẻ mạnh. Có thể thay nước bằng thủy triều hoặc dùng máy bơm.Thời gian đầu nuôi vỗ phải thay nước ít nhất mỗi tuần một lần, mỗi lần 20% thể tích nước trong ao.Từ tháng thứ ba trở đi cần thay nước mỗi ngày 10-20% thể tích để kích thích cá thành thục tốt. Khi thấy chất lượng nước ao bị xấu phải thay nhiều nước hơn lượng nước thay định kỳ để môi trường ao trở lại bình thường.
Cá tra là loài có cơ quan hô hấp phụ và lấy được khí trời để hô hấp, nên ít khi xảy ra tình trạng nổi đầu hoặc chết do ao thiếu o-xy, mà chủ yếu do các độc tố sinh ra trong quá trình phân hủy vật chất hữu cơ. Ðối với nuôi vỗ cá ba sa nuôi vỗ trong ao, do cá chịu đựng kém với tình trạng hàm lượng o-xy hoà tan trong nước bị giảm thấp, nhất là vào các ngày nóng, nhiệt độ lên cao, vào buổi sáng sớm thường có hiện tượng cá nổi đầu. Nếu cá nổi đầu nhiều lần thì làm cho kết quả phát dục không tốt, buồng trứng của cá sẽ khó đạt tới thành thục và kết quả sinh sản sẽ kém. Nếu nổi đầu nặng có thể làm cho cá chết ngạt. Trong trường hợp cá nổi đầu phải kịp thời cấp nước mới hoặc bơm nước phun mưa cho ao nhằm tăng thêm lượng o-xy hoà tan, giúp cho cá khoẻ lại.
2. Kỹ thuật cho cá đẻ nhân tạo
2.1. Công trình phục vụ cho cá đẻ nhân tạo
Bể đẻ được thiết kế theo mẫu của Trung quốc có cải tiến ( từ những thập niên 60 thế kỷ trước ), bể xây bằng xi măng, hình trụ tròn đường kính từ 3-5m, chiều cao 2 - 3m. Nước cấp vào bể phun theo đường tiếp tuyến để tạo dòng nước chảy vòng tròn liên tục. Sử dụng bể này để để chứa cá bó mẹ sau khi tiêm kích dục tố.
Khi cá rụng trứng phải bắt cá bố mẹ ra và vuốt trứng, vuốt tinh dịch để tiến hành thụ tinh nhân tạo.
Ngoài bể đẻ hình tròn, có thể dùng bể xi măng hình vuông, chữ nhật để chứa cá bố mẹ. Nhiều nơi đã làm bể tròn bằng composite, bằng nhựa hoặc kim loại như nhôm, inox với kích thước nhỏ ( 1 - 5m3 ) và phù hợp với cỡ cá bố mẹ cho đẻ.
- Bể ấp trứng cá: Những dạng bể xây bằng xi măng, có bể vòng hình tròn trong hệ thống bể đẻ kiểu Trung quốc, phù hợp cho ấp các loại trứng trôi nổi (mè, trôi, trắm.). Bể được sử dụng ấp trứng cá tra, cá ba sa sau khi đã khử tính dính của trứng hoặc trứng không khử dính cho bám vào các loại giá thể (vật bám) như rễ bèo lục bình (bèo tây), xơ dừa, xơ lynon, lưới nilon. Bể xi măng hình vuông hoặc chữ nhật cũng chủ yếu dùng cho ấp trứng không khử dính, có nước chảy nhẹ và hỗ trợ thêm sục khí trong quá trình ấp. Ngoài bể xây xi măng, còn có một số loại dụng cụ khác dùng để ấp trứng cá tra và ba sa như bình vây (Weis) thủy tinh hoặc nhựa trong suốt có thể tích 5-20 lít, hoặc bể composite, bể nhựa tròn thể tích 600-1000 lít. Nước ấp trứng được cấp liên tục và có thêm sục khí. 2.2. Mùa vụ sinh sản Trong tự nhiên cá thành thục và sinh sản vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5 âm lịch. Ðàn cá đẻ tự nhiên đẻ không đồng loạt nên thời gian xuất hiện cá bột trên sông cũng kéo dài 3-4 đợt trong vòng 2 tháng. Chưa phát hiện được cá tra tái thành thục trong tự nhiên. Ðối với cá tra nuôi vỗ cho sinh sản nhân tạo ở các tỉnh miền Nam (từ Ðà nẵng trở vào) mùa vụ thành thục của cá bố mẹ và bắt đầu cho đẻ từ tháng 2-3 trở đi, mùa vụ sinh sản có thể kéo dài tới tháng 10. Sau lần sinh sản thứ nhất, cá có thể tái thành thục trở lại và đẻ tiếp lần thứ hai. Cá tra bố mẹ tái thành thục 1-2 lần trong năm, thời gian để cá tái thành thục từ 1-2 tháng. Mùa vụ thành thục và bắt đầu cho đẻ của cá ba sa trong tự nhiên cũng kéo dài 3-4 tháng, do đó sự xuất hiện cá giống cá ba sa trên sông cũng kéo dài.
- LH-RHa, viết tắt của Lutenizing Hormon-Releasing Hormon analog, là hormon tổng hợp và được sử dụng rộng rãi cho cá và động vật nói chung. Thuốc sản xuất ở nhiều nước, của Trung quốc sản xuất được đóng gói trong lọ thủy tinh với lượng chứa 200, 500, 1000 mg (micro gam). LH-RHa có tác dụng chuyển hoá buồng trứng đồng thời gián tiếp gây rụng trứng. Khi sử dụng nhất thiết phải dùng kèm thêm hoạt chất gọi là Domperidon (viên DOM).
- Não thùy thể ( tuyến yên ) của các loài cá ( Mè trắng, chép , trôi ... ) Các loại kích dục tố này có thể sử dụng đơn hoặc kết hợp nhiều loại để tăng hiệu ứng. Nếu dùng kết hợp , chỉ nên dùng ở liều quyết định. Tuy nhiên nếu dùng kết hợp thì phải chọn 1 loại làm chính. Phương pháp tiêm Sau khi chọn xong những cá cho đẻ thì tiến hành tiêm thuốc kích thích sinh sản. Ðối với cá tra và ba sa dùng phương pháp tiêm nhiều lần, với cá cái thì 2-4 lần sơ bộ và 1 lần quyết định. Với cá đực thì tiêm 1 lần cùng lúc với liều quyết định của cá cái. Thời gian giữa các lần sơ bộ là 12 giờ (cá tra) hoặc 24 giờ (cá ba sa). Giữa liều sơ bộ cuối cùng và liều quyết định cách nhau 8 - 12 giờ.
Tùy theo chất lượng trứng và chủng loại kích dục tố ta áp dụng các liều tiêm thích hợp.
Cho cá tra :
- HCG : với cá cái, liều tiêm sơ bộ 300 - 500 UI/kg; liều quyết định 2500 - 3000 UI /kg . Với cá đực 300UI/kg.
- Não thùy thể : với cá cái, liều sơ bộ 0,5mg/kg; liều quyết định 5 - 7mg/kg. Với cá đực 0,5mg/kg.
- LH-RHa : chỉ dùng cho liều quyết định, với cá cái 100 - 150g/kg. Không dùng cho cá đực và liều sơ bộ của cá cái.
- Nếu phối hợp giữa HCG và não thùy, liều tiêm sơ bộ 300 - 500UI hoặc 0,5 mg não thùy/kg; liều quyết định 1000 UI + 2mg não thùy/kg . Với cá đực liều lượng bằng 1/3 - 1/2 của cá cái.
Cho cá ba sa :
chủ yếu sử dụng HCG hoặc phối hợp HCG với não thùy.
- HCG, với cá cái, liều tiêm sơ bộ 500 UI/kg; liều quyết định 3000 UI /kg . Với cá đực liều dùng bằng 1/3 - 1/2 của cá cái.
- Phối hợp giữa HCG và não thùy, liều tiêm sơ bộ 500UI/kg hoặc 0,5 mg não thùy/kg; liều quyết định 1000 UI + 2mg não thùy/kg . Với cá đực liều lượng bằng 1/3 - 1/2 của cá cái.
- Thời gian hiệu ứng thuốc : sau 8 - 12 giờ liều tiêm quyết định thì trứng rụng.
- Vị trí tiêm : tiêm ở gốc vây ngực, ở cơ lưng hoặc ở xoang bụng. Ðối với cá tra là cá không có vẩy nên tiêm ở cơ đơn giản hơn. Có thể tiêm trực tiếp kích dục tố HCG và não thùy thẳng vào xoang buồng trứng. Ở các lần tiêm khác nhau nên tiêm ở vị trí khác nhau để tránh làm cá bị thương. Khi tiêm, đặt mũi kim đúng vào vị trí đã định, nghiêng mũi kim một góc 450 so với thân cá, bơm thuốc nhanh nhưng không vội vàng và rút ra từ từ để tránh thuốc bị trào ra ngoài.
2.5. Vuốt trứng và thụ tinh
Ðối với cá tra và ba sa khi sinh sản nhân tạo phải dùng phương pháp vuốt trứng và thụ tinh khô. Trước khi tiến hành vuốt trứng, đưa cá vào băng ca và nhúng cá vào dung dịch thuốc gây mê Tricane (thường gọi là MS 222, tên hóa học là 3-amino benzoic acid ethyl ester methanesulfonate) nồng độ 40mg/lít trong 3-4 phút để cá bị mê và không còn dãy dụa trong khi vuốt trứng. Thao tác vuốt trứng phải nhẹ nhàng và khẩn trương tránh làm cho cá bị thương, để trứng chảy ra gọn vào trong chậu khô, vuốt từ phần trên xuống dưới cho hết trứng đã rụng. Nếu cá rụng trứng róc, có thể vuốt một lần là hết trứng. Ðôi khi phải vuốt 2,3 lần do trứng cá rụng cục bộ hoặc rụng không đồng lọat. Cá vuốt trứng xong phải lập tức ngâm vào nước sạch sau khỏang 3 - 4 phút thì tỉnh lại.
Ðể tính được lượng trứng cá đã đẻ được, dùng cách tính theo phương pháp trọng lượng như sau : cân toàn bộ trọng lượng trứng vuốt được, cân riêng 10 gam và đếm để tính số trứng của 1 gam, nhân với tổng trọng lượng trứng (tính bằng gam) thì biết tổng lượng trứng đã vuốt được. Nếu đem chia số lượng trứng vuốt được cho trọng lượng cá cái ta được con số gọi là sức sinh sản tương đối thực tế. Sức sinh sản tương đối thực tế của cá tra trong khỏang 90 - 130.000 trứng và cá ba sa là 10-12.000 trứng (cho 1 kg cá cái). Trong thực tế, lượng trứng vuốt được của những cá thể cái rụng trứng róc, cũng chỉ chiếm từ 70 - 80% số trứng có trong buồng trứng.
2.6. Khử tính dính của trứng
Trứng cá tra và ba sa thuộc loại trứng có tính dính. Sau khi trứng rụng và tiếp xúc với nước thì trở nên dính, có thể dễ dàng dính vào các vật trong nước cũng như dính với nhau. Tính dính của trứng gây nhiều khó khăn cho việc ấp trứng, nhất là trong sản xuất giống hàng lọat với số lượng lớn. Nếu ấp trứng không khử dính thì cho trứng dính lên giá thể và ấp trong bể ấp hoặc bể vòng. Trứng khử dính được ấp trong bể vòng hoặc bình vây.
Có thể dùng một số hoạt chất như tanin ( có vị chát ), men bromelin ( tìm thấy trong nước ép qủa dứa ), sữa bột v.v để khử tính dính của trứng cá tra và ba sa. Cách thông dụng nhất hiện nay là dùng tanin pha với nước thành nồng độ 0,1%. Sau khi cho chất khử dính vào trứng ta dùng lông gà khuấy đều trong khoảng 30 giây thì ta chắt nước đó ra và dùng nước sạch rửa trứng nhiều lần cho sạch, sau đó cho trứng vào bình vây hoặc bể vòng để ấp.
3. Kỹ thuật ương nuôi cá tra giống
3.1. Nhu cầu thức ăn của cá sau khi hết noãn hoàng
- Cá tra :
Sau khi hết noãn hoàng, cá tra bột thích ăn mồi tươi sống, có mùi tanh. Những thức ăn ưa thích của cá tra bột là: cá bột các loài ( như mè vinh, he, rô đồng .), các loài giáp xác thấp ( moina, daphnia, còn gọi là trứng nước ), ấu trùng artemia. Chúng vẫn ăn lẫn nhau nếu ta không kịp thời cung cấp thức ăn cho chúng.
Biện pháp giải quyết tốt nhất là phải tạo được một lượng thức ăn tự nhiên có sẵn và đầy đủ trong ao ương trước khi thả cá bột, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu ăn của cá, hạn chế được sự ăn lẫn nhau của chúng.
3.2. Kỹ thuật ương nuôi
- Chuẩn bị ao :
Ao có diện tích lớn nhỏ tùy theo khả năng từng hộ gia đình và cơ sở sản xuất giống, nhưng càng lớn càng tốt và không nên quá hẹp (dưới 200 m2). Ðộ sâu nước thích hợp 1,2 - 1,5 m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động.
Các bước tiến hành khâu chuẩn bị ao :
Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ và địch hại (rắn, cua, ếch, chuột.) dùng chất Rotenon để diệt ( có trong dây thuốc cá ), lượng dùng dây thuốc cá tươi 1 kg cho 100 m3 nước ao.
Sên vét bớt bùn đáy.
Bón vôi : rải đều đáy và mái bờ ao, lượng dùng 7 - 10 kg/100m2.
Phơi đáy ao 1 - 2 ngày, chú ý những vùng ảnh hưởng phèn (pH thấp) thì không nên phơi đáy ao, vì sẽ làm cho phèn dễ theo mao mạch thoát lên tầng mặt
Bón lót cho ao bằng bột đậu tương và bột cá, liều lượng mỗi lọai 0,5kg/100m2 đáy ao.
Lọc nước vào ao từ từ qua lưới lọc mắt dày, mực nước sâu 0,3 - 0,4 m.
Thả giống trứng nước và trùng chỉ ( 0,5 - 1 kg trứng nước và 2kg trùng chỉ cho 100 m2 đáy ao ).
Sau một ngày, tiếp tục đưa nước vào ao ngập đến 0,7 - 0,8 m.
Thả cá bột.
Tiếp tục đưa nước vào ao, từ từ sau 2 ngày đến đủ chiều sâu nước yêu cầu .
- Lựa chọn cá bột để thả : quan sát cá đều cỡ, bơi lội nhanh nhẹn, màu sắc cá tươi sáng. Cá ba sa đã hết nõan hòang, cá tra có thể sắp hết hoặc vừa hết noãn ho.
Mật độ ương nuôi : ương trong ao, mật độ cá tra 250 - 400 con/m2, cá ba sa 50 - 100 con/m2. Ương trong bể xi măng, mật độ cá ba sa 400 - 500 con/m2 .
Quy cỡ cá hương, giống cá tra khi thu họach như sau:
- Ương thành cá hương: sau 3 tuần đạt cỡ dài thân 3-3,2cm, cao thân 0,7 cm.
- Ương cá giống : ương thêm 60 - 70 ngày, cá đạt cỡ dài thân 10 - 12cm .
Từ cỡ 10 - 12cm có thể tiếp tục ương trong bè cho đến cỡ giống lớn 18 - 25cm ( 10 - 15 con/kg ) sẽ chuyển vào nuôi thịt trong bè. Thức ăn cung cấp cho cá giai đọan này cũng giống như giai đọan trước.
Phát triển bởi:
TRUNG TÂM MÔI TRƯỜNG & VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP THUỶ SẢN DOPA
ĐC: 37 Thạch Bàn - Phường Thạch Bàn - Long Biên - Hà Nội ( Bản Đồ Đến Dopa Tại Đây )
ĐT: 04 63 259 389 /09 7 7 710 403 / 097 568 11 21 / 094 568 11 21
Mail: thuocthuysan86@gmail.com
Web: http://thuysandopa.vn
https://www.facebook.com/thuysandopa